( Tài liệu này dienbatn sưu tầm và tổng hợp nên không ghi nguồn .)
I/ Chu kỳ 12 năm của Tuế Tinh .
[Năm thứ I]: Năm Nhiếp Đề Cách
Tuế Âm (Thái Tuế) chuyển về phía trái và ở cung Dần. Tuế Tinh chuyển phía phải và đóng ở cung Sửu. Tháng Giêng vào buổi sáng, Tuế Tinh sẽ mọc ở phía Đông, nơi các chòm sao Đẩu và Khiên Ngưu, có tên là Giám Đức.
Sắc xanh và sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và nếu nó mọc nơi chòm sao Liễu thì đầu năm đó sẽ mưa nhiều, cuối năm đó sẽ nắng nhiều.
Tuế Tinh mọc, tiến về phía Đông 12o. Sau 100 ngày dừng lại, rồi thoái. Thoái 8o. Sau 100 ngày lại tiến về phía Đông.
Trong một năm nó đi được 30o 7/16 và như vậy mỗi ngày di chuyển trung bình là 1/12o. Trong vòng 12 năm nó đi được một vòng trời. Bao giờ nó cũng mọc ở phía Đông lúc bình minh, và lặn về phía Tây lúc chập tối.
[Năm thứ 2]: Năm Đơn Ất
Tuế Âm ở Mão, Tuế Tinh ở Tí. Tháng Hai mọc phía Đông, buổi sáng, nơi chòm sao Vụ Nữ, Hư, Nguy. Có tên là Giáng Nhập. Nếu mọc không đúng chỗ, mà lại mọc nơi chòm sao Trương thì gọi là Giáng Nhập. năm đó nước lớn.
[Năm thứ 3]: Năm Chấp Từ
Tuế Âm ở Thìn. Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Ba mọc buổi sáng nơi chòm sao Doanh Thất, Đông Bích, gọi là Thanh Chương. Ánh sáng rất xanh, rất sáng. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Chẩn thì gọi là Thanh Chương. Năm đó đầu năm hạn hán, cuối năm nước to.
[Năm thứ 4]: Năm Hoang Lạc
Tuế Âm ở Tị, Tuế Tinh ở Hợi. Tháng Tư, sáng sớm mọc nơi chòm sao Khuê, Lâu, Vị, Mão, gọi là Biền Chủng. Có màu đỏ. Nếu nó mọc sai chỗ, không đúng cách, thì sẽ mọc nơi chòm sao Cang.
[Năm thứ 5]: Năm Đôn Tàng
Tuế Âm ở Ngọ, Tuế Tinh ở Dậu. Tháng Năm, mọc nơi chòm sao Vị, Mão, Tất, vào lúc buổi sáng, gọi là Khai Minh. Nó sáng rực. Không nên chinh chiến, vì chỉ lợi cho vương công mà không lợi cho tướng soái. Nếu mọc sai chỗ, không đúng cách, nó sẽ mọc nơi chòm sao Phòng. Năm đó thì đầu năm nắng nhiều, cuối năm nước lớn.
[Năm thứ 6]: Năm Hiệp Hiếp
Tuế Âm ở Mùi, Tuế Tinh ở Thân. Tháng Sáu, mọc ở chòm sao Chủy, Huề, Sâm; gọi là Trường Liệt. Sáng láng. Nếu mọc sai chỗ thì sẽ mọc nơi chòm sao Cơ.
[Năm thứ 7]: Năm Huân Than
Tuế Âm tại Thân, Tuế Tinh tại Mùi. Tháng Bảy, sáng sớm mọc nơi chòm sao Đông Tỉnh, Dư Quỉ; gọi là Thiên Âm. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Thiên Ngưu.
[Năm thứ 8]: Năm Tác Ngạc
Tuế Âm tại Mão, Tuế Tinh tại Ngọ. Tháng Tám, mọc nơi các chòm sao Liễu, Thất, Tinh, Trương; gọi là Vi Trường Vương. Nếu sáng lóe thành tia thì quốc gia tương ứng sẽ thịnh và sẽ được mùa lúa. Nếu nó mọc sai chỗ và mọc ở chòm sao Nguy thì gọi là Đại Chương, nắng nhiều nhưng thịnh vượng. Đàn bà chết nhiều, dân chết nhiều.
[Năm thứ 9]: Năm Yêm Mậu
Tuế Âm tại Tuất, Tuế Tinh tại Tỵ. Tháng Chín, Tuế Tinhmọc nơi chòm sao Dực, Chẩn; gọi là Thiên Huy, sáng và trắng. Nếu mọc sai chỗ sẽ mọc nơi chòm sao Đông Bích. Năm đó mưa nhiều, con gái chết nhiều.
[Năm thứ 10]: Năm Uyên Hiến
Tuế Âm tại Hợi, Tuế Tinh tại Thìn. Tháng Mười, Tuế Tinh mọc nơi chòm sao Giác, Cang; gọi là Đại Chương. Nếu sao sáng xanh và lấp lánh nhiều và nếu hiện ra vào lúc rạng đông thì gọi là Chính Bình. Nên xuất binh chinh phạt. Quốc gia tương ứng sẽ có và lấy được Thiên hạ. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Lâu.
<Trong nguyên bản thiếu năm thứ 11>
[Năm thứ 12]: Năm Xích Phấn Nhược
Tuế Âm ở Sửu, Tuế Tinh ở Dần. Tháng 12, ban sáng mọc ở chòm sao Vĩ, Cơ; gọi là Thiên Hạo, sắc sẫm và sáng. Nếu mọc sai chỗ, sẽ mọc nơi chòm sao Sâm.
II. QUAN SÁT SAO BẮC ĐẨU
Xem sao Bắc Đẩu buổi chiều khoảng 18 giờ sẽ biết dưới trần gian đang ở vào mùa nào. Thí dụ:
- Tháng 11 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tí.
- Tháng 12 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu.
- Tháng 1 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dần.
- Tháng 2 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, v.v.
Như vậy, sao Bắc Đẩu chính là đồng hồ để chỉ mùa, chỉ tháng quanh năm.
Sao Bắc Đẩu còn quay một vòng trong một ngày, như chiếc kim đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hướng Ngọ. Sáu giờ sau nữa (tức 6 giờ sáng ngày hôm sau), nó sẽ chỉ hướng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trưa hôm sau nó sẽ chỉ hướng Tí, để rồi 18 giờ chiều lại chỉ hướng Mão, v.v.
Lê Quí Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ như sau:
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão (tháng 2), chính là tiết Xuân Phân, cho đến tiết Lập Hạ giữa tháng Tị (tháng 4) là lúc Thiếu Dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tị (tháng 4), chính là tiết Tiểu Mãn, cho đến tiết Tiểu Thử vào giữa tháng Mùi (tháng 6) là lúc Thiếu Âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mùi (tháng 6), chính là tiết Đại Thử, cho đến tiết Bạch Lộ vào giữa tháng Dậu (tháng 8), là Thái Âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mây mưa nhiều, khí ẩm thấp bốc lên.
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dậu (tháng 8), chính là tiết Thu Phân, cho đến tiết Lập Đông vào giữa tháng Hợi (tháng 10), là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Hợi (tháng 10), chính là tiết Tiểu Tuyết, cho đến Đại Tuyết (vào giữa tháng 12) là Thái Dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.
«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu (tháng 12), chính là tiết Đại Hàn, cho đến tiết Kinh Trập (vào giữa tháng 2) là lúc Quyết Âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là mỗi tiết khí ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.»
Lê Quí Đôn tuy bàn về tiết khí nhưng chính cũng đã gián tiếp cho ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu có thể dùng để chỉ các tháng trong năm.
I. Tử Vi Viên 紫 微 垣
Tử Vi Viên tức là nội cung, nội tẩm, gồm 54 sao hay chòm sao. Ta thấy Thiên Hoàng Đại Đế 天 皇 大 帝 ngự ở ngôi Bắc Thần 北 辰. Có Câu Trần 勾 陳 làm cận vệ, có Đế Tọa 帝 座 (Thiên Đế Tinh: l’Étoile souveraine du ciel), có Thiên Sàng 天 床 (le Lit de justice céleste), có lọng che (Hoa Cái 華 蓋 và Giang 杠: le Baldaquin), lại có các Hậu Phi 后 妃 (les Reines), Thái Tử 太 子 (le Prince Impérial), các Thứ Tử 次 子 (les fils de concubine), các công chúa (Ngự Nữ 御 女: les filles impériales).
Điểm qua hàng phụ tá, ta thấy có:
- Tứ Phụ 四 輔 (les quatre Supports)
- Thượng Thư 尚 書 (le Secrétaire)
- Trụ Sử 柱 史 (Ngự sử: Censeurs)
- Đại Lý 大 理 (les Juges)
- Tam Sư 三 師 (les Trois Gouverneurs)
- Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers)
- Tướng 相 (le Ministre)
- Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences)
- Văn Xương 文 昌 (les Accomplis)
- Thái Tôn 太 尊 (les Grands Augustes)
- Thiên Ất 天 乙 (la Première du Ciel)
- Thái Ất 太 乙 (l’Archie première)
- Lục Giáp 六 甲 (les Six Chefs)
- Thái Dương Thủ 太 陽 守 (le Gardien resplendissant)
- Truyền Xá 傳 舍 (le Maître du Logis)
Ngoài ra còn có:
- Thiên Trù 天 廚 (la Cuisine céleste)
- Nội Trù 內 廚 (la Cuisine intérieure)
- Thiên Lao 天 牢 (la Prison céleste)
- Tả Khu 左 樞 (le Pivot droit)
- Hữu Khu 右 樞 (le Pivot gauche)
Và nhất là chiếc xe trời: Đế Xa 帝 車 gồm 7 vì sao Bắc Đẩu: (1) Khu Tinh (Tham Lang), (2) Tuyền Tinh (Cự Môn), (3) Kỵ Tinh (Lộc Tồn), (4) Quyền Tinh (Văn Khúc), (5) Hành Tinh (Liêm Trinh), (6) Khai Dương (Vũ Khúc), (7) Giao Quang (Phá Quân).
II. Thái Vi Viên 太 微 垣
Thái Vi Viên là chỗ Thượng Đế thiết triều. Ta thấy ở giữa có Ngũ Đế Tòa (la Siège Intérieur des cinq empereurs) chỗ ấy là ngai Thượng Đế (Hoàng Đế). Đàng sau ngai Đế Tòa, ta thấy:
- Thái Tử 太 子 (le Prince) và các cận vệ như:
. Hạnh Quan 幸 官 (les Officieur du Bonneur)
. Tòng Quan 從 官 (la Suite)
. Hổ Bí 虎 賁 (Hổ Bôn: les Tigres rapides)
. Thường Trần 常 陳 (l’Escouade perpétuelle)
. Lang Tướng 郎 將 (le Commandant de la Garde)
. Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences)
. Lang Vị 郎 位 (le Siège des Officiers)
Hai bên tả hữu phía trước ngai lại giàn ra hai hàng văn võ:
- Thượng Tướng 上 將 (Premier Général)
- Thứ Tướng 次 將 (Second Général)
- Thượng Tướng 上 相 (Premier Conseiller)
- Thứ Tướng 次 相 (Second Conseiller)
- Tả Chấp Pháp 左 執 法 (le Justicier de Gauche)
- Hữu Chấp Pháp 右 執 法 (le Justicier de Droite)
Nơi sân rồng ta thấy bức bình phong (Nội bình 內 屏) và sự hiện diện của:
- Cửu Khanh 九 卿 (les Neuf Nobles)
- Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers auliqués)
- Chư Hầu 諸 侯 (les Qinq Officiers)
- Yết Giả 謁 者 (les Visiteurs)
Xa hơn nữa, ta thấy có cửa ‘Đoan Môn’ 端 門, toà ‘Minh Đường’ 明 堂, tòa ‘Linh Đài’ 靈 臺 cùng với bức tường ‘Trường Viên’ 長 垣 của triều đình Thiên Quốc.
Thái Vi Viên gồm 29 sao hay chòm sao. (Xem hình vẽ)
III. Nhị thập bát tú 二 十 八 宿
Người xưa gọi Nhị thập bát tú tức là 28 ‘quán xá’ trời hay là những Kinh tinh để cho mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh chuyển vận lại qua.
Nhị thập bát tú theo từ nguyên, vừa có ý nghĩa luân lý, vừa có mục đích mô tả lại công việc một năm của nhà vua. Ví dụ: Giác 角 là vạn vật bắt đầu sinh. Vạn vật sinh ra rồi thì phải định tông miếu lễ nghĩa (Cang 亢), v.v. Giác là đầu mùa xuân, cũng là sừng để tung lòng trời, lòng đất mà nhô lên. Giác có phụ tinh là Thiên Điền 天 田, vì đầu xuân vua ra đồng để cấy một luống tượng trưng…
Ta không đi sâu vào chỉ tiết, mà chỉ cần nhớ tên và vị trí Nhị thập bát tú. Nhị thập bát tú gồm 4 nhóm sao lớn:
a. Nhóm sao phía Đông là Thanh Long 青 龍 , có 7 chòm sao:
(1) Giác 角 Spica và Virginis
(2) Cang 亢 Virginis
(3) Đê 氐 Libræ
(4) Phòng 房Scorpionis
(5) Tâm 心 Scorpionis
(6) Vĩ 尾 Scorpionis
(7) Cơ 箕 Sagittarii, Telescopii
b. Nhóm sao phía Bắc là Huyền Võ 玄 武, có 7 chòm sao:
(1) Đẩu 斗 Sagittarii
(2) Ngưu 牛 Neb. 323, 324 Capricorne, Neb. 322 Sagittarii
(3) Nữ 女 493 Piazzii, Aquarii
(4) Hư 虛 Aquarii, Equlei
(5) Nguy 危 Aquarii, Pegasi
(6) Thất 室 Aquarii, Pegasi
(7) Bích 璧 Andromedæ Pegasi
c. Nhóm sao phía Tây là Bạch Hổ 白 虎, có 7 chòm sao:
(1) Khuê 奎 16 saoAndromedæ, Piscium
(2) Lâu 婁 Capitis Arietis
(3) Vị 胃 Muscoe
(4) Mão 昴Tauri (Pleiades)
(5) Tất 畢 IV61 Piazi, Tauri (Hyades)
(6) Chủy 觜 Orionis
(7) Sâm 參 , Orionis
d. Nhóm sao phía Nam là Chu Tước 朱 雀, có 7 chòm sao:
(1) Tỉnh 井 8 sao: và Germinerum
(2) Quỉ 鬼 Caneri
(3) Liễu 柳 Hydræ
(4) Tinh 星 20 và 26 Flamsteed vài sao chòm Hydræ
(5) Trương 張 6 sao và Hydræ
(6) Dực 翼 22 sao Crateris và Hydræ
(7) Chẩn 軫 Cervi
Cách sắp xếp Nhị thập bát tú trên vòng Hoàng Đạo hết sức phức tạp. Ta thấy có mấy cách sắp sau đây:
IV. Thất Chính 七 正
Thất Chính gồm: (1)Mặt trời (Thái Dương); (2)Mặt trăng (Thái Âm); và Ngũ Hành: (3) Kim Tinh (Thái Bạch); (4) Mộc Tinh (Mộc Đức); (5) Thủy Tinh (Thủy Diệu); (6) Hỏa Tinh (Vân Hán); (7) Thổ Tinh (Thổ Tú).[1]
- Mặt trăng (Lune) quay 1 vòng chu thiên: 1/12 năm.
- Thủy Tinh (Mercure) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm.
- Kim Tinh (Venus) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm.
- Mặt trời (Soleil) quay 1 vòng chu thiên: 1 năm.
- Hỏa Tinh (Mars) quay 1 vòng chu thiên: 2 năm.
- Mộc Tinh (Jupiter) quay 1 vòng chu thiên: 12 năm.
- Thổ Tinh (Saturne) quay 1 vòng chu thiên: 28 năm.
Hỏa, Mộc, Thổ : Dương (chủ ngoại)
Kim, Thủy: Âm (chủ nội)
Âm Dương đắp đổi giao thoa thành thiên văn, thiên biến, và thời tiết. Ngày nay theo hệ thống Copernic thì các hành tinh đều quay quanh mặt trời theo những qui đạo bầu dục.
Ngày xưa, người Trung Hoa cũng như Âu Châu quan sát tinh tượng từ trái đất và bằng mắt trần, nên thấy các hành tinh có những đường lối hết sức là phức tạp, lắt léo, lúc tiến lúc lui, lúc đi lúc đứng, lúc hiện lúc ẩn, lúc ấp lúc trì; ánh sáng cũng tùy theo thời tiết, tùy theo các lớp mây lớp mù mà biến sắc, do đó họ cho là các vì sao biết giận biết vui như con người, tiến thì hay, thoái thì dở…
Họ cho rằng: Thổ Tinh là phúc tinh, ứng vào nước nào thì nước ấy phúc khánh. Mộc Tinh hay Tuế Tinh là phúc tinh, còn Hỏa Tinh là sao đem tới loạn lạc, giặc giã. Kim Tinh hay Thái Bạch chủ về quân binh nên tướng soái phải tùy Thái Bạch cao thấp, nhanh chậm, tỉnh táo, ẩn hiện mà bắt chước, điều binh. Thủy Tinh chỉ tứ thời, sắc vàng thì được mùa, đen thì hồng thủy…
Ta làm bản tóm lược về ngũ tinh như hình sau.
V. Sông Ngân Hà
Vòng Dịch có đường xoáy chữ S ở giữa, thì trời có sông Ngân Hà vắt ngang theo chiều Tí Ngọ.
Cát Hồng Bão Phác Tử viết: Sông Ngân Hà[2] nơi gần Bắc Cực chia thành hai nhánh, và từ đó vắt sang Nam Cực. Một nhánh qua chòm sao Nam Đẩu, một nhánh qua chòm sao Đông Tỉnh.
Thiên Tân
Gustav Schlegel cho rằng quả thực cách đây 18.500 năm sông Ngân Hà đã có vị trí như trên, và sách chiêm tinh học đều ghi chép như vậy. Tuy nhiên, vì sự chuyển dịch ngày nay chỗ sông Ngân Hà chẻ nhánh đã xa Bắc Cực nhiều.
Khoảng gần Bắc Cực, sông Ngân Hà có một chỗ khô «có thể lội qua» gọi là Thiên Tân (bến trời) thuộc các chòm sao Ngưu, Đẩu, vì thế Thiên Tân còn có một tên là Cách Tinh. Cách là đến, Tân là qua. Thiên tân trên trời có thể nói là ứng với quẻ Phục trong vòng Dịch Tiên Thiên.
Khảo sát về thiên văn học Trung Hoa ta thấy các nhà thiên văn chẳng những muốn nghiên cứu sự vận chuyển các vì sao, mà còn muốn dùng các sao trên trời để viết lại niềm tin của mình, những hoài bão của mình, những công trình của mình phải làm trong năm, trong tháng. Hơn nữa, người xưa còn muốn đem tâm tư con người mà điểm xuyết cho các vì sao, đem tính nết lành dữ của con người gán ghép cho các vì sao, làm cho bầu trời trăng sao trở thành một thiên đình linh động, thành một triều đình được tổ chức theo như nơi trần thế. Sau cùng, đem gắn liền hoạt động các vì sao vào công việc, vào số mệnh và sự hưng vong họa phúc của dân nước.
Muốn hiểu thiên văn Trung Hoa ta hãy mường tượng như các vì sao nhất là hai vầng nhật nguyệt và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) là những vị thần linh, mà Nhị thập bát tú là những quán xá trời mây của những vị thần linh ấy. Các hành tinh này rong ruổi trên con đường Hoàng Đạo nhanh chậm khác nhau. Các hành tinh lại còn đi lúc nhanh lúc chậm, khi đi khi đứng, khi lui gót lúc bối rối vòng vo, lúc giận hờn mà thấy sắc diện, hoặc phát ra những tia lửa tức tối. Mỗi quán xá trời mây của Nhị thập bát tú lại ứng vào một phần đất dưới trần gian, và tùy theo sao lành dữ đóng ở cung nào trên trời thì hạnh phúc hay loạn lạc sinh ra nơi phần đất tương ứng ở trần gian.
( Viết theo Thiên văn học cổ - Nhân tử Nguyễn Văn Thọ ).
Lời nhắn nhủ của dienbatn : Những kiến thức về Thiên văn học này rất quan trọng để hiểu được những phần sau của môn Phong thủy, nhất là khi nghiên cứu về La Kinh. Xin các bạn chớ bỏ qua. dienbatn.
Xin xem tiếp
bài 29. dienbatn.
Blog Trần Tứ Liêm theo Điện Bà Tây Ninh
TỔNG HỢP CÁC BÀI VIẾT
PHONG THỦY LUẬN
Tác giả: Điện Bà Tây Ninh