Hình ảnh những cô gái thướt tha trong
tà áo dài duyên dáng từ lâu đã trở thành biểu tượng của Việt Nam. Tuy
nhiên, nhìn lại quá trình phát triển lịch sử trang phục dân tộc, Việt
Nam không chỉ có áo dài mà còn có áo yếm - thứ trang phục không thể
thiếu của người con gái xưa.
Ngày xưa áo yếm thường chỉ được gọi với cái tên nôm na là cái yếm, đó là
thứ trang phục đã có từ bao đời nay và vẫn còn giữ được cho đến ngày
hôm nay. Yếm là một thứ trang phục nội y không thể thiếu của người phụ
nữ Việt xưa. Nó là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để
quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, được dùng để che ngực.
Không chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ công nương, cái yếm còn ra
ruộng đồng "dầm mưa dãi nắng" với người nông dân và cùng với chiếc áo
tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp phần tạo nên bộ
"quốc phục" của quý bà thời xưa.
Khi xưa ở với mẹ cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lật trong ra ngoài.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng chiếc yếm được ra đời là để tôn lên
cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của người phụ nữ trong văn hóa
Việt Nam.
Theo
quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có cái
lưng được thắt đáy nhỏ nhắn như cái lưng ong. Người Việt xưa cho rằng
những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có
đầy đủ tất cả những đức hạnh của một người vợ, người mẹ.
Đàn bà thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Áo yếm ngày xưa
Cái yếm
xuất hiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam không biết tự lúc nào
và mãi tới đời nhà Lý (Thế kỷ 12) cái yếm mới "định hình" về cơ bản.
Theo dòng lịch sử, cái yếm không ngừng biến đổi, nâng cao tính thẩm mỹ
qua những lần cải tiến.
Thuyền anh ngược thác lên đây
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Ở gần mà chẳng sang chơi
Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.
Mồng tơi chẳng bắc được đâu
Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang
Ở thế kỷ 17, cái yếm vẫn chưa có sự thay
đổi lớn lao về hình thức. Thế kỷ 19, cái yếm có hình vuông vắt chéo
trước ngực, góc trên khoét lỗ làm cổ, hai đầu của lỗ, đính hai mẩu dây
để cột ra sau gáy.
Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xẻ,
đít chữ V mà xẻ sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn. Bước sang thế kỷ 20,
áo yếm càng được sử dụng phổ biến với nhiều kiểu dáng và mẫu mã phong
phú.
Dành cho người lao động có yếm màu nâu dệt bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm.
Con gái nhà gia giáo mặc yếm nhiều màu,
trang nhã và kín đáo. Loại yếm "ỡm ờ", màu sặc sỡ, cổ cắm sâu trễ quá bờ
ngực, "thách thức" chỉ dân "trời ơi" dạng Thị Mầu mới mặc. Thời kỳ
"cách tân" này, cổ yếm thường được "dằn" thêm ba đường chỉ để "bảo hiểm"
hoặc may viền lằn vải, thêu hoa cặp theo đường biên cổ.
"Em đeo giải yếm đào
Quần lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao".
Một loại yếm hay được các cô gái sử dụng nữa là "yếm đeo bùa". Gọi là
yếm đeo bùa bởi người mặc chúng thường để xạ hương vào trong túi vải nhỏ
đeo cạnh yếm, đó chính là thứ vũ khí vô cùng lợi hại của các cô gái
thời xưa...
Không chỉ vậy, chiếc yếm còn làm nên những câu chuyện tình yêu vô cùng
độc đáo. Xưa, các cô gái khi hẹn hò người mình yêu thường "ém" một miếng
trầu trong chiếc yếm của mình, dân gian gọi đó là "khẩu trầu dải yếm".
Có lẽ không có thứ trầu nào "linh thiêng" hơn loại trầu dải yếm này.
Để trở thành "quốc phục" của quý bà quý
cô trước khi chiếc áo dài ra đời, đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh
khoác ngoài không cài cúc.
Khi ra ngoài bên ngoài chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài, chiếc váy
lưỡi trai bằng lĩnh, dải lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái xà
tích bạc lủng lẳng, bộ "độ nghề" ǎn trầu bên phía cạnh sườn, chân mang
dép.
Gió xuân tốc dải yếm đào
Anh trông thấy oản sao không vào thắp hương.
Chưa hết, phục trang ra đường còn phải
kể đến là hai chiếc khǎn đội đầu: khǎn nhiễu (quấn bên trong) và khǎn mỏ
quạ (trùm bên ngoài). Nếu đúng dịp hội hè đình đám các cô gái thường
trang bị thêm cho mình chiếc nón quai thao, tóc vấn cao cài lược.
Suốt chiều dài lịch sử, cái yếm đã đi vào "giấc mơ" của biết bao thế hệ
mày râu. "Trời mưa lấy yếm mà che - Có anh đứng gác còn e nỗi gì?". Đáp
lại, các nàng cũng chẳng vừa: "Ước gì sông hẹp tày gang - Bắc cầu dải
yếm cho chàng sang chơi".
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Ðôi gò Bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông
Hỡi cô mặc áo yếm hồng
Đi trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô kia yếm trắng lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín cà xanh
Anh cho một quả để dành mớm con.
Cho đến câu nhớ nhung, mong đợi của kẻ xa quê
Mình về mình có nhớ chăng
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao
Cái yếm là thứ trang phục vừa kín đáo,
vừa... “ỡm ờ” một cách nghệ thuật và độc đáo. Chả thế mà Thị Mầu nói với
chàng nô: "Gió xuân tốc dải yếm đào - Anh trông thấy oản sao không vào
thắp hương!"...
Hay như thơ
Hồ Xuân Hương:
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Ðôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
Cuộc cách mạng yếm xảy ra vào thế 20 khi các kiểu áo Tây phương xâm
nhập vào Việt Nam với sự ra đời của rất nhiều kiểu yếm và áo ngực mới
lạ. Trang phục du nhập vào có tính tiện dụng hơn hẳn nên Yếm không còn
được sử dụng rộng rãi nữa, yếm thường chỉ được dùng cùng với các trang
phục cổ trong các dịp lễ hội truyền thống.
Ngày nay chiếc yếm đã được cải tiến gọi
là áo yếm để dùng cho các em gái mới lớn. Áo yếm dùng mặc trong có hai
dây đeo lên vai thay vì trước đây chiếc yếm có hai dây buộc quanh cổ và
hai dây bên buộc ngang lưng... nhưng chiếc áo yếm ngày xưa vẫn xứng đáng
là một di sản trang phục của Việt Nam.
Còn đâu cái yếm lụa sồi
Bi.TTVN(Tổng hợp từ báo Huế, Wikipedia và nhiều nguồn khác)
Xem thêm tin nóng khác: