BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO - 平吳大告
Đăng bởi Trần Tứ Liêm - Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025
Nguyên văn (Hán văn) "Bình Ngô đại cáo" trong Hoàng Việt văn tuyển do Bùi Huy Bích biên soạn năm 1825.
平吳大告
Bình Ngô đại cáo
Bản dịch: Ngô Tất Tố
代天行化皇上若曰。
Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
仁義之舉,要在安民,
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
弔伐之師,莫先去暴。
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
惟,我大越之國,
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Như nước Đại Việt ta từ trước
實為文獻之邦。
Thực vi văn hiến chi bang.
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
山川之封域既殊,
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Núi sông bờ cõi đã chia
南北之風俗亦異。
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Phong tục Bắc Nam cũng khác
自趙丁李陳之肇造我國,
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
與漢唐宋元而各帝一方。
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
雖強弱時有不同
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
而豪傑世未常乏。
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Song hào kiệt thời nào cũng có.
故劉龔貪功以取敗,
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
(Cho nên:) Lưu Cung tham công nên thất bại,
而趙禼好大以促亡。
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
唆都既擒於鹹子關,
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
烏馬又殪於白藤海。
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
嵇諸往古,
Kê chư vãng cổ,
Việc xưa xem xét,
厥有明徵。
Quyết hữu minh trưng.
Chứng cớ còn ghi.
頃因胡政之煩苛。
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
(Vừa rồi:) Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
至使人心之怨叛。
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Để trong nước lòng dân oán hận.
狂明伺隙,因以毒我民;
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
惡黨懷奸,竟以賣我國。
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
焮蒼生於虐焰,
Hân thương sinh ư ngược diễm,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
陷赤子於禍坑。
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
欺天罔民,詭計蓋千萬狀;
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
連兵結釁稔惡殆二十年。
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
敗義傷仁,乾坤幾乎欲息;
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
重科厚歛,山澤靡有孑遺。
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
開金場塞冒嵐瘴而斧山淘沙,
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
採明珠則觸蛟龍而緪腰汆海。
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
擾民設玄鹿之陷阱,
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
殄物織翠禽之網羅。
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
昆虫草木皆不得以遂其生,
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
鰥寡顛連俱不獲以安其所。
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
浚生靈之血以潤桀黠之吻牙;
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
極土木之功以崇公私之廨宇。
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
州里之征徭重困,
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Nặng nề những nổi phu phen,
閭閻之杼柚皆空。
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Tan tác cả nghề canh cửi.
決東海之水不足以濯其污,
Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
罄南山之竹不足以書其惡。
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
神民之所共憤,
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Lẽ nào trời đất dung tha,
天地之所不容。
Thiên địa chi sở bất dung.
Ai bảo thần dân chịu được?
奮跡藍山,
Phấn tích Lam Sơn,
Núi Lam sơn dấy nghĩa
棲身荒野。
Thê thân hoang dã.
Chốn hoang dã nương mình
念世讎豈可共戴,
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
誓逆賊難與俱生。
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Căm giặc nước thề không cùng sống
痛心疾首者垂十餘年,
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
嘗膽臥薪者蓋非一日。
Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
發憤忘食,每研覃韜略之書,
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
即古驗今,細推究興亡之理。
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
圖回之志,
Đồ hồi chi chí,
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
寤寐不忘。
Ngộ mị bất vong.
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
當義旗初起之時,
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
正賊勢方張之日。
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Chính lúc quân thù đang mạnh.
人才秋葉,
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
俊傑晨星。
Tuấn kiệt thần tinh.
Nhân tài như lá mùa thu,
奔走先後者既乏其人,
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
謀謨帷幄者又寡其助。
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
特以救民之念,每鬱鬱而欲東;
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
故於待賢之車,常汲汲已虛左。
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
得人之效茫若望洋,
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
由己之誠甚於拯溺。
Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
憤兇徒之未滅,
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
念國步之遭迍。
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Phần vì lo vận nước khó khăn,
靈山之食盡兼旬,
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
瑰縣之眾無一旅。
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
蓋天欲困我以降厥任,
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
故與益勵志以濟于難。
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
揭竿為旗,氓隸之徒四集
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
投醪饗士,父子之兵一心。
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
以弱制彊,或攻人之不備;
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
以寡敵眾常設伏以出奇。
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
以大義而勝兇殘,
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
以至仁而易彊暴。
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
蒲藤之霆驅電掣,
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
茶麟之竹破灰飛。
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
士氣以之益增,
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Sĩ khí đã hăng
軍聲以之大振。
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Quân thanh càng mạnh.
陳智山壽聞風而褫魄,
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
李安方政假息以偷生。
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
乘勝長驅,西京既為我有;
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
選兵進取,東都盡復舊疆。
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
寧橋之血成川,流腥萬里;
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
窣洞之屍積野,遺臭千年。
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
陳洽賊之腹心,既梟其首;
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
李亮賊之奸蠹,又暴厥屍。
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
王通理亂而焚者益焚,
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
馬瑛救鬥而怒者益怒。
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
彼智窮而力盡,束手待亡;
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
我謀伐而心攻,不戰自屈。
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
謂彼必易心而改慮,
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
豈意復作孽以速辜。
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
執一己之見以嫁禍於他人,
Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
貪一時之功以貽笑於天下。
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
遂靈宣德之狡童,黷兵無厭;
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
(Bởi thế:) Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
仍命晟昇之懦將,以油救焚。
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
丁未九月柳昇遂引兵猶邱溫而進,
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
本年十月木晟又分途自雲南而來。
Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
予前既選兵塞險以摧其鋒,
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
予後再調兵截路以斷其食。
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
本月十八日柳昇為我軍所攻,計墜於支稜之野;
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
本月二十日柳昇又為我軍所敗,身死於馬鞍之山。
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
二十五日保定伯梁銘陣陷而喪軀,
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
二十八日尚書李慶計窮而刎首。
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
我遂迎刃而解,
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
彼自倒戈相攻。
Bỉ tự đảo qua tương công.
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
繼而四面添兵以包圍,
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
期以十月中旬而殄滅。
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
爰選貔貅之士,
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Sĩ tốt kén người hùng hổ
申命爪牙之臣。
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
飲象而河水乾,
Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
磨刀而山石鈌。
Ma đao nhi sơn thạch quyết.
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
一鼓而鯨刳鱷斷,
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
再鼓而鳥散麇驚。
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Đánh hai trận tan tác chim muông.
決潰蟻於崩堤,
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Cơn gió to trút sạch lá khô,
振剛風於稿葉。
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
都督崔聚膝行而送款,
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
尚書黃福面縛以就擒。
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
僵屍塞諒江諒山之途,
Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
戰血赤昌江平灘之水。
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
風雲為之變色,
Phong vân vị chi biến sắc,
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
日月慘以無光。
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
其雲南兵為我軍所扼於梨花,自恫疑虛喝而先以破腑;
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
其沐晟眾聞昇軍所敗於芹站,遂躪藉奔潰而僅得脫身。
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
丹舍之屍山積,野草為之殷紅。
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
兩路救兵既不旋踵而俱敗,
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
各城窮寇亦將解甲以出降。
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
賊首成擒,彼既掉餓虎乞憐之尾;
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
神武不殺,予亦體上帝孝生之心。
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
參將方政,內官馬騏,先給艦五百餘艘,既渡海而猶且魂飛魄散;
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
總兵王通,參政馬瑛,又給馬數千餘匹,已還國而益自股慄心驚。
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
彼既畏死貪生,而修好有誠;
Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
予以全軍為上,而欲民之得息。
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
非惟謀計之極其深遠,
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Chẳng những mưu kế kì diệu
蓋亦古今之所未見聞。
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Cũng là chưa thấy xưa nay
社稷以之奠安,
Xã tắc dĩ chi điện an,
Xã tắc từ đây vững bền
山川以之改觀。
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Giang sơn từ đây đổi mới
乾坤既否而復泰,
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Càn khôn bĩ rồi lại thái
日月既晦而復明。
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
于以開萬世太平之基,
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
于以雪天地無窮之恥。
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
是由天地祖宗之靈有,
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
以默相陰佑而致然也!
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
一戎大定,迄成無競之功;
Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;
Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm
四海永清,誕布維新之誥。
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn.
BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO - 平吳大告
Bạn đang xem tại Blog Trần Tứ Liêm. Đừng quên Chia Sẻ nếu bài viết có ích! Mời xem dự án của tôi:
Từ điển Anh Việt - Từ điển Hán Việt - Từ điển Ê Đê - Từ điển NNKH - Từ điển Tiếng Việt